Giảm nghèo miền núi Đà Nẵng, gỡ nút thắt mang tên nếp nghĩ
Đà Nẵng - Sau những con số ấn tượng về xóa đói giảm nghèo, thách thức lớn nhất không phải là tiền bạc mà là hành trình thay đổi "nếp nghĩ, cách làm".

Những con số biết nói
Với hàng chục nghìn tỉ đồng được đầu tư, hàng nghìn ngôi nhà tạm được xóa bỏ, bộ mặt nông thôn, miền núi của Đà Nẵng (sau sáp nhập) đã thay đổi ngoạn mục. Thế nhưng, đằng sau những con số ấn tượng đó, cuộc chiến chống đói nghèo ở những vùng sâu, vùng xa vẫn còn một nút thắt lớn nhất, khó gỡ nhất: đó là “nếp nghĩ, cách làm” đã ăn sâu vào tiềm thức của một bộ phận người dân.
Nhìn lại giai đoạn 2021-2025, công tác giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới tại Quảng Nam (cũ) và Đà Nẵng đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Đây là một cuộc vận động toàn diện, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và sự đồng lòng của người dân. Riêng tại Quảng Nam (cũ), phong trào “Không để ai bị bỏ lại phía sau” đã huy động được nguồn lực khổng lồ, trên 11.000 tỉ đồng.
Nhờ đó, hơn 8.100 ngôi nhà tạm đã được hỗ trợ xây mới và sửa chữa, 364 dự án sinh kế được triển khai, giúp tỉ lệ hộ nghèo đa chiều giảm mạnh từ 7,79% (năm 2021) xuống chỉ còn 3,86% vào cuối năm 2025, vượt xa chỉ tiêu được giao. Đặc biệt, chiến dịch xóa nhà tạm, nhà dột nát đã hoàn thành 100% kế hoạch với 12.298 căn nhà được xử lý tính đến tháng 10.2025.
Những con số ấy không chỉ là thống kê khô khan, nó là minh chứng cho quyết tâm chính trị to lớn, là niềm vui và sự an cư của hàng vạn hộ gia đình. Thế nhưng, khi nguồn lực của nhà nước được đổ về ngày càng nhiều, một nghịch lý lại nảy sinh ở một số địa phương.
Ông Lê Quang Trung, Bí thư Đảng ủy xã Phước Hiệp, một xã miền núi phía Tây Đà Nẵng, không giấu được nỗi trăn trở. Ông chia sẻ: “Từ thuở mở đất lập làng, đồng bào các dân tộc thiểu số ở đây đã quen với cuộc sống hài hòa với thiên nhiên: đất rộng, người thưa, sản vật từ rừng, con cá dưới suối, sống một cuộc đời phóng khoáng, tự tại. Nếp sống ấy đã ăn sâu vào tiềm thức. Trong giai đoạn đất nước đổi mới, nhiều chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được thực thi nhằm nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thành quả mang lại là vô cùng to lớn. Tuy vậy, cũng từ các chính sách này, nảy sinh một bộ phận mới nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước, ít ham muốn lao động, thiếu khát vọng vươn lên thoát nghèo, làm giàu dù mình đủ các điều kiện để phát triển; cố giữ mình trong diện hộ nghèo để được hưởng các chính sách của Nhà nước.”

Tâm lý “an phận”, “trông chờ” này chính là mảnh đất màu mỡ cho các tệ nạn và hủ tục bén rễ. Khi thiếu khát vọng vươn lên làm giàu, một bộ phận người dân không chỉ giữ nếp sống an nhàn, tự cung tự cấp mà thậm chí còn sa vào tệ nạn rượu chè, làm ảnh hưởng đến phong trào chung của cộng đồng. Việc ngại tiếp thu kiến thức xã hội, khoa học kỹ thuật khiến các tập quán lạc hậu khó bị xóa bỏ, tạo thành vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Đây chính là “nút thắt” lớn nhất mà nếu không tháo gỡ, mọi nguồn lực đầu tư từ bên ngoài, dù lớn đến đâu, cũng khó có thể phát huy hiệu quả bền vững.
Hệ quả là cái khó, cái nghèo trong đồng bào vẫn dai dẳng, dù nguồn lực đã có nhưng rất khó giải ngân hiệu quả. Tình trạng này dẫn đến một nghịch lý: dù có áp lực giải ngân cho đạt tiến độ thì hiệu quả mang lại cũng không bền vững. Đây chính là “nút thắt” lớn nhất, là rào cản văn hóa đang kiềm hãm sức mạnh nội sinh, mà nếu không tháo gỡ, mọi sự hỗ trợ từ bên ngoài, dù lớn đến đâu, cũng khó có thể phát huy hiệu quả lâu dài.
“Vốn mồi” của Nhà nước
Nhận diện được gốc rễ của vấn đề, Cuộc vận động “Thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số” đã được triển khai quyết liệt. Đây không phải là những lời hô hào suông, mà là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tuyên truyền và những hành động cụ thể, xuất phát từ sự thấu hiểu và kiên trì của đội ngũ cán bộ cơ sở.
Ông Lê Quang Trung rút ra bài học sâu sắc từ thực tiễn: “Vận động không thể nói suông bằng lời lẽ, tài liệu mà phải đi kèm với những hành động cụ thể của chính quyền để nhân dân thấy sự quyết tâm”.
Ông kể lại một ví dụ điển hình trong việc vận động đồng bào cải thiện chất lượng nhà ở. Tại một khu dân cư cũ, đường vào chưa đến 2m, nhà cửa chen chúc, nhếch nhác. Chính quyền vận động thế nào bà con cũng không muốn làm nhà mới, dù có điều kiện, với lý do “không muốn xa xóm làng, xa nơi ông bà để lại”. Cho đến khi, chính quyền quyết tâm xây dựng một khu giãn dân mới, đường giao thông thông thoáng rộng 5m, có đầy đủ hệ thống điện, nước sinh hoạt, thì mọi chuyện thay đổi. Những hộ dân trước đây một mực từ chối, nay lại sẵn sàng di dời và tự huy động nguồn lực để làm những ngôi nhà khang trang, to đẹp. Điều này cho thấy, sức mạnh và nguồn lực trong nhân dân là rất lớn, nhưng cần có “vốn mồi” của Nhà nước để dẫn dắt, tạo thế và khơi thông.
Vận động phải đi đôi với “cầm tay chỉ việc”. Thay vì chỉ họp dân để phổ biến, cán bộ Hội Phụ nữ, Hội Nông dân đến tận từng vườn, từng nhà. Thấy vườn còn để hoang, họ cùng gia chủ cuốc đất, hướng dẫn kỹ thuật trồng rau, cải tạo vườn tạp.
“Phải để gia đình làm là chính, người đến giúp là phụ, giúp định hình về kỹ thuật, bố trí, sắp xếp,” ông Trung nhấn mạnh. Khi mô hình thành công, người dân nhận thức được đó là công sức của chính mình, họ sẽ có thêm động lực để tiếp tục làm và nhân rộng.


Đặc biệt, chính sách phải có sự kết hợp giữa khen thưởng và chế tài. Xã Phước Hiệp kiên quyết xóa bỏ tư tưởng cào bằng. Những ai được vận động mà trở thành điển hình tiên tiến thì phải kịp thời biểu dương, khen thưởng để nuôi dưỡng và phát triển phong trào. Ngược lại, những ai cố tình không chấp hành, không muốn nghe, không muốn làm thì tuyệt đối không đưa họ vào đối tượng được thụ hưởng chính sách. Sự nghiêm khắc nhưng công bằng này giúp người dân hiểu rằng, Nhà nước không cho không ai cái gì, mà chỉ hỗ trợ những người có trách nhiệm gìn giữ và phát huy sự hỗ trợ đó.
Để giải quyết căn cơ tư tưởng ỷ lại, ông Lê Quang Trung còn đề xuất một giải pháp táo bạo: tiến tới bỏ các tiêu chí xác định hộ nghèo, cận nghèo theo giai đoạn, thay vào đó sử dụng cụm từ “hộ có hoàn cảnh khó khăn” áp dụng thống nhất. Như vậy sẽ không còn tình trạng mong muốn ở lại diện hộ nghèo để hưởng chính sách. Thay vào đó, chính quyền cấp xã sẽ được phân cấp, giao quyền xác định cụ thể từng hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn để tập trung giúp đỡ đúng đối tượng, đúng nhu cầu: khó khăn về nhà ở giúp nhà ở, khó khăn về việc làm giúp việc làm.

Hành trình thay đổi một nếp nghĩ đã tồn tại hàng trăm năm là một chặng đường dài và không ít gian nan. Nhưng với những mệnh lệnh từ trái tim của đội ngũ cán bộ, với những cách làm sáng tạo, phù hợp, khát vọng làm giàu, xây dựng cuộc sống ấm no đang dần được thắp lên trong mỗi gia đình, mỗi bản làng. Đó mới chính là con đường thoát nghèo bền vững và chân chính nhất.









