Bàn về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện, để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Do đó, việc nắm, biết về thời hiệu khởi kiện là tối quan trọng, tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu và biết rõ về thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật hiện hành.
Theo Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng, pháp luật dân sự qua các lần thay đổi, bổ sung đều quy định khái niệm thời hiệu có nội dung tương tự nhau. Theo quy định tại Điều 149 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015, thì thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự.
BLDS 2015 không còn liệt kê các loại thời hiệu trong khái niệm nữa mà quy định về các loại thời hiệu với bản chất thời hiệu thông qua cách diễn đạt khái quát tại Điều 150.
BLDS 2015 quy định về thời hiệu đã bổ sung cụ thể hơn so với quy định trong BLDS 2005; nội dung sửa đổi có tính nguyên tắc thể hiện sâu sắc quyền tự định đoạt của chủ thể trong quan hệ dân sự, thể hiện tại Điều 149 BLDS 2015 và khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015, đó là: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ. Mặt khác, ý nghĩa lớn hơn của quy định này là loại trừ sự can thiệp của cơ quan tố tụng, lấy lý do về thời hiệu đã hết để từ chối giải quyết hay để hủy kết quả xét xử trước đó; bảo đảm sự công bằng, hợp lý đối với chủ thể có quyền quyết định áp dụng hay không áp dụng thời hiệu vì chính chủ thể là người chịu hậu quả phát sinh từ thời hiệu. Nếu hết thời hiệu mà các bên không có yêu cầu Tòa án áp dụng thì Tòa án vẫn giải quyết bình thường.
Tại Mục 3 Phần IV Công văn 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của TANDTC về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, trong đó có vấn đề giải thích cho đương sự về quyền áp dụng thời hiệu như sau:
“Theo quy định tại Điều 48, Điều 210, Điều 239 của BLTTDS thì thẩm phán, chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm phổ biến, giải thích về quyền và nghĩa vụ cho đương sự đối với những trường hợp mà BLTTDS quy định, ví dụ quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định từ Điều 70 đến Điều 73; khoản 6 Điều 48 của BLTTDS...
BLTTDS không quy định trách nhiệm của thẩm phán về việc phổ biến và giải thích cho đương sự quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu. Mặt khác, khoản 2 Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc...”.
Để bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, thẩm phán không giải thích cho đương sự quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 150 BLDS 2015 thì: “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”.
Để xã hội phát triển thì phải ổn định được các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Những tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực này phải được giải quyết kịp thời, nếu để lâu, mâu thuẫn phát triển, việc giải quyết sẽ khó khăn hơn.
Vì vậy, ngoài việc quy định thời hạn tố tụng, pháp luật còn quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Việc pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện có ý nghĩa rất lớn như thời hạn tố tụng. Trong việc giải quyết các vụ án dân sự, thời hiệu xác định rõ thời hạn mà chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ, bảo đảm cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận tiện, đúng đắn.
Hiện nay, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được quy định tại các Điều 154, Điều 155, Điều 156 và Điều 157 BLDS 2015; Điều 184, Điều 185 BLTTDS 2015. Ngoài ra, còn được quy định tại Điều 319 Luật Thương mại 2005, Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022...
Theo đó, đối với mỗi vụ việc dân sự nói chung, pháp luật đều quy định thời hiệu khởi kiện và thời hiệu khởi kiện được quy định ngắn hay dài trong các trường hợp cụ thể là tùy thuộc vào tính chất của mỗi loại quan hệ tranh chấp.
Tuy nhiên, do yêu cầu của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể trong một số loại vụ việc, Điều 155 BLDS 2015 quy định không áp dụng thời hiệu trong các những trường hợp như: yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản; yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác (như các tranh chấp liên quan đến kiện đòi tài sản theo Điều 166 BLDS 2015).
Cùng với đó, tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 cũng không áp dụng thời hiệu. Bởi, những trường hợp tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì quyền khởi kiện không áp dụng thời hiệu. Đây là quy định mới của BLDS năm 2015 so với BLDS trước đó. Ngoài ra, cũng còn một số trường hợp khác (do luật định) cũng sẽ không áp dụng thời hiện.
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện được thực hiện theo quy định của BLDS năm 2015. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự có thể được tính bắt đầu từ một sự kiện pháp lý khác.
Trên thực tế, do những nguyên nhân khác nhau mà việc khởi kiện không thực hiện được trong thời hiệu khởi kiện. Do đó, để bảo đảm quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ; pháp luật quy định khoảng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Do đó, mỗi chủ thể cần nhận thức đầy đủ về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự nhằm kịp thời thực hiện quyền khởi kiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.