Giải pháp nào giúp giảm tai nạn giao thông?
Ngày 31/5, Quỹ Phòng chống thương vong châu Á (Quỹ AIP) phối hợp cùng Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia tổ chức Hội thảo “Các giải pháp trọng tâm nâng cao an toàn giao thông đường bộ tại Việt Nam”.
Một vụ tai nạn giao thông. (Ảnh minh họa)
Đây là hoạt động thuộc khuôn khổ Dự án “Tăng cường quản lý các yếu tố rủi ro có nguy cơ cao dẫn tới tai nạn giao thông (TNGT) và hậu quả lớn nhằm cải thiện an toàn giao thông (ATGT) đường bộ tại Việt Nam”, do Hiệp hội An toàn giao thông đường bộ toàn cầu (GRSP) và Tổ chức Vận động chính sách y tế toàn cầu (GHAI) hỗ trợ kỹ thuật.
Tại Hội thảo, Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia Trần Hữu Minh cho biết, Việt Nam đã và đang cam kết mạnh mẽ trong việc chung tay cùng cộng đồng thế giới thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe và cuộc sống bình an cho tất cả mọi người dân. Trong nỗ lực hướng đến một tương lai an toàn hơn, việc tìm giải pháp đối với các nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu là vô cùng cần thiết.
Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia nhấn mạnh, trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác bảo đảm an toàn giao thông, là một trong số ít các nước trên thế giới kéo giảm TNGT xuống còn 1/2 trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020. Kết quả này được cộng đồng quốc tế ghi nhận đánh giá cao.
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận rằng, thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra ở Việt Nam vẫn còn lớn. Do đó, theo ông Nguyễn Hữu Minh, để đạt được mục tiêu toàn cầu giảm tỉ lệ thương vong và tử vong do TNGT xuống 50%, phương pháp tiếp cận lấy con người làm trung tâm đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các hoạt động hợp tác và thay đổi hành vi tham gia giao thông.
Hội thảo cũng nhấn mạnh các giải pháp để giảm TNGT. Cụ thể, Liên Hợp quốc đã khuyến cáo 5 yếu tố đặc biệt quan trọng liên quan đến hành vi trực tiếp của người tham gia giao thông, nếu quản lý tốt những hành vi này thì việc đảm bảo ATGT sẽ tăng lên. Cụ thể, 5 yếu tố bao gồm: quản lý sử dụng rượu bia khi lái xe; quản lý về tốc độ; đội mũ bảo hiểm với người đi mô tô, xe máy; thắt dây an toàn trên xe ô tô và thiết bị an toàn cho trẻ em trên ô tô”, Chánh Văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia cho biết.
Tuy nhiên, các chuyên gia đã chỉ ra những hạn chế và thiếu sót trong các quy định hiện hành liên quan đến 5 yếu tố hành vi có nguy cơ gây mất an toàn giao thông tại Việt Nam. Từ đó, chia sẻ các bằng chứng khoa học và khuyến nghị để đóng góp cho quá trình xây dựng luật.
Cụ thể, đối với thiết bị an toàn cho trẻ em, khuyến nghị trẻ em có chiều cao dưới 135cm và dưới 12 tuổi được chở trên xe ô tô cá nhân bắt buộc phải được bảo vệ bằng các thiết bị an toàn phù hợp với chiều cao và độ tuổi và không được phép ngồi hàng ghế của người lái xe ở tất cả các phương tiện cơ giới.
Đối với dây an toàn, khuyến nghị tất cả các ghế trên xe ôtô đều phải có dây an toàn. Yêu cầu tất cả người ngồi trên xe ôtô (gồm cả lái xe và hành khách cả ghế trước và ghế sau) đều phải thắt dây an toàn đúng cách.
Hội thảo khuyến nghị, đối với sử dụng rượu, bia khi tham gia giao thông, các hành vi vi phạm quy định nồng độ cồn ở mức đặc biệt nghiêm trọng kể cả khi chưa gây hậu quả cũng cần được xem xét truy tố xử lý hình sự. Cần lưu trữ hồ sơ vi phạm và quản lý chặt chẽ tái phạm và xử phạt lũy tiến đối với các hành vi tái phạm về nồng độ cồn.
Đối với vi phạm tốc độ quy định, khuyến nghị quy định thống nhất tốc độ khu vực đô thị và khu vực đông dân cư xuống 50km/h với tất cả các loại đường. Tại khu vực có tình trạng giao thông phức tạp như trường học, giảm tốc độ giới hạn xuống 30km/h.
Đối với quy định mũ bảo hiểm, các chuyên gia khuyến nghị cần duy trì quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm đạt chuẩn với tất cả người ngồi trên xe mô tô, xe máy, xe đạp điện, xe máy điện; Bổ sung quy định xử phạt về hành vi không đội mũ bảo hiểm đạt chuẩn cho trẻ em dưới 6 tuổi trên xe mô tô, xe máy.
Trong khuôn khổ Hội thảo, các chuyên gia, diễn giả đã trình bày nhiều tham luận xoay quanh 5 yếu tố quan trọng liên quan đến hành vi trực tiếp của người tham gia giao thông với nhiều thông tin, số liệu nghiên cứu, phân tích cụ thể, chính xác, đồng thời đưa ra những khuyến nghị, giải pháp thiết thực. Đây sẽ là cơ sở dữ liệu quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trong thời gian tới.