Cụ thể hóa đẩy mạnh học tập suốt đời trong công nhân, lao động
Công đoàn Giáo dục Việt Nam góp ý vào Dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Dự thảo nên bổ sung khái niệm “Kỹ năng”
Phân tích về nội dung góp ý vào Dự thảo, TS. Nguyễn Ngọc Ân - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐVN, Chủ tịch Công đoàn Giáo dục Việt Nam khẳng định, việc nghiên cứu, tìm hiểu và triển khai hiệu quả chủ trương phát triển xã hội học tập theo tinh thần Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, theo TS. Ân, trong Dự thảo nên bổ sung khái niệm “Kỹ năng” trong nội hàm “tự trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ của mọi người dân, mọi lứa tuổi”. Bởi trong kỷ nguyên mới, giáo dục nói chung và học tập suốt đời nói riêng luôn hướng tới việc rèn kỹ năng cho người học. Kiến thức và và trình độ được hình thành từ kỹ năng là một cách tiếp cận mới.
Từ thực tiễn, TS.Nguyễn Ngọc Ân cho biết, nhiều công nhân mong muốn học thêm để thăng tiến hoặc thay đổi công việc, nhưng họ gặp rào cản về thời gian (làm ca, nghỉ ngơi ít), chi phí, điều kiện học tập (khu trọ, đường đi lại), và cả trình độ học vấn ban đầu. Một phần đào tạo do doanh nghiệp tổ chức tập trung vào kỹ năng nghề ngắn hạn. Đào tạo dài hạn, giáo dục đại học hay kỹ năng mềm vẫn còn hạn chế tiếp cận.
Chuyển đổi số trong giáo dục và áp dụng mô hình học trực tuyến đã mở ra cơ hội lớn nhưng đồng thời tạo ra “khoảng cách số”. Đó là công nhân trẻ, có kỹ năng công nghệ tiếp cận tốt hơn so với lao động trung niên, lao động nữ ở vùng xa.
Bên cạnh đó nhu cầu kỹ năng của thị trường lao động thay đổi nhanh (tự động hóa, số hóa) khiến chương trình đào tạo đôi khi không bắt kịp, dẫn đến khoảng trống kỹ năng cần lấp đầy bằng đào tạo lại và nâng cấp kỹ năng.
Cần có chính sách ưu tiên và hỗ trợ cụ thể cho công nhân trong việc học tập
Theo TS. Nguyễn Ngọc Ân, Nhà nước cần cụ thể hóa các chủ trương trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng và các đề án như “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030”, “Đẩy mạnh học tập suốt đời trong công nhân, lao động đến năm 2030” thành các quy định, hướng dẫn thực hiện rõ ràng, có tính khả thi cao. Cần ưu tiên bố trí nguồn lực tài chính, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động tham gia các chương trình đào tạo, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp khấu trừ chi phí đào tạo khỏi thuế nhằm tạo động lực đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp.
Một trong những giải pháp TS.Ân đề xuất là cần có chính sách ưu tiên và hỗ trợ cụ thể cho công nhân trong việc học tập, bồi dưỡng kỹ năng. Nhà nước nên mở rộng các quỹ hỗ trợ đào tạo nghề, quỹ phát triển nguồn nhân lực; đồng thời ban hành cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo bằng hình thức miễn, giảm thuế hoặc hỗ trợ tài chính. Chính sách học bổng, tín dụng ưu đãi, hay hỗ trợ chi phí học tập cho công nhân học thêm ngoài giờ cũng cần được triển khai rộng rãi, nhất là ở các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Cơ chế phối hợp này giúp bảo đảm việc học gắn với nhu cầu sản xuất, tránh lãng phí nguồn lực và nâng cao hiệu quả đào tạo. Cuối cùng, việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giám sát, công nhận kết quả học tập không chính quy và phi chính quy cũng cần được thể chế hóa, góp phần xây dựng một môi trường học tập linh hoạt, mở, đáp ứng nhu cầu học suốt đời của công nhân trong thời kỳ chuyển đổi số.
TS. Nguyễn Ngọc Ân nhấn mạnh, mô hình “doanh nghiệp - trường nghề - Công đoàn” cần được nhân rộng để công nhân vừa học, vừa làm, liên tục được cập nhật kỹ năng mới. Qua đó không chỉ giúp công nhân được học tập ngay tại nơi làm việc mà còn bảo đảm tính cập nhật của chương trình, đáp ứng đúng yêu cầu kỹ năng của thị trường lao động.
Công đoàn cần trở thành cầu nối giữa người lao động với cơ sở đào tạo, khuyến khích tinh thần học tập suốt đời thông qua các phong trào “Công nhân học tập, sáng tạo”, “Mỗi ngày một kiến thức mới”.
Các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa lao động, thư viện số trong khu công nghiệp cần được đầu tư và khai thác hiệu quả, tạo điều kiện để công nhân có không gian học tập, trao đổi và phát triển kỹ năng.
  









